Thiếu máu não là một trong những bệnh lý cần được quan tâm bởi nó không chỉ gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của người bệnh mà còn có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, người bệnh cần hiểu rõ về bệnh để có những cách phòng tránh và điều trị phù hợp.
1. Tìm hiểu chung
Thiếu máu não là gì?
Thiếu máu não hay còn gọi là thiếu máu não cục bộ hay thiếu máu cục bộ mạch máu não xảy ra khi lượng máu lên não không đủ. Oxy và các chất dinh dưỡng quan trọng được vận chuyển trong máu qua các động mạch - các mạch máu mang oxy và máu giàu chất dinh dưỡng đến mọi bộ phận của cơ thể.
Các động mạch cung cấp máu cho não theo một con đường nhất định đảm bảo mọi vùng của não được cung cấp đầy đủ máu từ một hoặc nhiều động mạch. Khi một động mạch trong não bị tắc nghẽn hoặc chảy máu, điều này dẫn đến việc cung cấp oxy cho vùng não phụ thuộc vào động mạch cụ thể đó thấp hơn.
Ngay cả sự thiếu hụt tạm thời trong việc cung cấp oxy cũng có thể làm suy giảm chức năng của vùng não bị thiếu oxy. Trên thực tế, nếu các tế bào não bị thiếu oxy trong hơn một vài phút, các tổn thương nghiêm trọng có thể xảy ra, dẫn đến mô não bị chết. Loại chết mô não này còn được gọi là nhồi máu não hoặc đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
2. Triệu chứng thường gặp
Những dấu hiệu và triệu chứng của thiếu máu não
Các triệu chứng của thiếu máu cục bộ não có thể từ nhẹ đến nặng. Chúng có thể kéo dài từ vài giây đến vài phút. Nếu tình trạng thiếu máu cục bộ diễn ra trong thời gian ngắn và giải quyết trước khi tổn thương vĩnh viễn (nhồi máu) có thể xảy ra, thì sự kiện này thường được gọi là cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA).
Nếu não bị tổn thương do thiếu máu cục bộ, các triệu chứng có thể trở nên vĩnh viễn. Các triệu chứng của thiếu máu cục bộ não bao gồm những điều sau:
-
Suy nhược cơ thể ở một hoặc cả hai bên của cơ thể;
-
Mất cảm giác ở một hoặc cả hai bên của cơ thể;
-
Lú lẫn hoặc mất phương hướng;
-
Thay đổi tầm nhìn của một hoặc cả hai mắt;
-
Chóng mặt, chóng mặt;
-
Nhìn đôi;
-
Nói lắp;
-
Mất ý thức hoặc giảm ý thức;
-
Cân bằng các vấn đề và vấn đề với sự phối hợp.
Tác động của thiếu máu não đối với sức khỏe
Trong khi việc tái tưới máu nhanh chóng sau khi thiếu máu cục bộ/nhồi máu là điều cần thiết để bảo tồn chức năng thần kinh, nó có thể dẫn đến rối loạn chức năng mô và hoại tử tế bào do phá hủy các tế bào bị tổn thương có thể hồi phục. Tổn thương do thiếu máu cục bộ-tái tưới máu não có thể xảy ra sau khi tiêu huyết khối hoặc phẫu thuật cắt huyết khối cơ học.
Trong khi điều này phục hồi lưu lượng não và cứu vãn các mô bị tổn thương có thể đảo ngược, việc tái tưới máu sau một thời gian thiếu máu cục bộ lâu hơn có thể gây ra một cơn nhồi máu lớn hơn so với lần tắc ban đầu.
Biến chứng có thể gặp khi mắc bệnh thiếu máu não
Chuyển đổi sang đột quỵ xuất huyết sau tPA là một biến chứng khác. Cần xem xét nghiêm túc nếu tình trạng của bệnh nhân xấu đi sau khi dùng thuốc làm tan huyết khối. Các triệu chứng có thể bao gồm thay đổi nhận thức hoặc ý thức, kiểm tra thần kinh tồi tệ hơn, suy nhược gia tăng, đau đầu mới hoặc trầm trọng hơn, hoặc thay đổi huyết áp hoặc mạch.
Nếu điều này xảy ra, bước đầu tiên phải là chụp CT đầu ngay lập tức, các phòng thí nghiệm cơ bản và tư vấn phẫu thuật thần kinh. Bệnh nhân bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính cũng có nguy cơ bị các biến chứng bất động, bao gồm nhiễm trùng và biến chứng huyết khối tắc mạch.
Khi nào cần gặp bác sĩ?
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Cẩm nang bạn nên biết:
3. Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân dẫn đến thiếu máu não
Một nguyên nhân quan trọng của thiếu máu não cục bộ thoáng qua là nghẽn mạch. Rất nhiều bệnh nhân thiếu máu não cục bộ thoáng qua do cục máu đông từ tim hoặc từ động mạch lớn ngoài sọ và cục máu đông đôi khi thấy ở động mạch võng mạc. Hơn nữa hiện tượng nghẽn mạch giải thích tại sao các cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua ở các vùng khác nhau trong khu vực tưới máu của một động mạch lớn.
Nguyên nhân cục máu đông từ tim bao gồm bệnh thấp tim, bệnh van hai lá, loạn nhịp tim, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, u nhầy nhĩ, hoặc biến chứng nhồi máu cơ tim vách. Bệnh nhân không có vách liên nhĩ và còn lỗ liên nhĩ thì có thể để cho cục nghẽn đi từ tĩnh mạch tới được não (cục nghẽn ngược). Một mảng loét trên thành mạch lớn đến não có thể gây cục máu đông.
Vòng tuần hoàn phía trước, các thay đổi xơ vữa mạch xảy ra hầu hết là ở chỗ chia đôi của động mạch cảnh đoạn ngoài sọ và các thay đổi này có thể gây ra tiếng thổi. Một số bệnh nhân thiếu máu não cục bộ thoáng qua hoặc đột quỵ có thể thấy chảy máu cấp hoặc mới ở mảng xơ vữa, điều này có thể có ý nghĩa sinh lý bệnh. Các bệnh nhân AIDS có nhiều nguy cơ thiếu máu não cục bộ thoáng qua hoặc đột quỵ.
Một số các bất thường khác ít gặp hơn của mạch máu có thể gây thiếu máu não cục bộ thoáng qua gồm loạn sản xơ cơ hay gặp ở động mạch cảnh trong đoạn ở cổ; các bệnh viêm động mạch như viêm động mạch tế bào khổng lồ, lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa động mạch, viêm mạch u hạt, giang mai mạch máu màng não. Hạ huyết áp có thể gây giảm tưới máu não nếu một động mạch lớn đoạn ngoài sọ hẹp đáng kể nhưng đây là nguyên nhân hiếm gặp gây thiếu máu não cục bộ thoáng qua.
Các nguyên nhân huyết học gây thiếu máu não cục bộ thoáng qua gồm đa hồng cầu, bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, và hội chứng tăng độ nhớt của máu. Thiếu máu nặng cũng có thể gây các thiếu hụt thần kinh khu trú thoáng qua ở bệnh nhân có bệnh mạch máu não tồn tại từ trước.
4. Nguy cơ mắc phải
Những ai có nguy cơ mắc phải thiếu máu não?
Những đối tượng có nguy cơ thiếu máu não bao gồm:
Yếu tố làm tăng nguy cơ mắc phải thiếu máu não
Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc thiếu máu não, bao gồm:
-
Nghiện rượu;
-
Tăng huyết áp;
-
Hút thuốc lá;
-
Rối loạn chuyển hóa lipid máu;
-
Đái tháo đường;
-
Tình trạng kháng Insulin;
-
Béo phì;
-
Thiếu hoạt động thể lực;
-
Chế độ ăn nguy cơ cao (ví dụ: Giàu chất béo bão hòa, chất béo chuyển dạng và năng lượng);
-
Căng thẳng tâm lý xã hội (ví dụ, trầm cảm);
-
Bệnh tim (đặc biệt là các bệnh lý dẫn đến thuyên tắc mạch, như nhồi máu cơ tim cấp, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, và rung nhĩ);
-
Sử dụng một số loại thuốc nhất định (ví dụ, cocaine, amphetamines);
-
Tình trạng tăng đông;
-
Viêm mạch.
4. Phương pháp chẩn đoán và điều trị
Phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán thiếu máu não
Chẩn đoán hình ảnh
CT scan sọ sẽ loại trừ được chảy máu não nhỏ hoặc u não có biểu hiện lâm sàng giống thiếu máu não cục bộ thoáng qua. Một số thăm dò không xâm lấn như siêu âm đã được phát triển để nghiên cứu tuần hoàn não và hình ảnh mạch máu lớn đến sọ.
Siêu âm doppler mạch cảnh có tác dụng phát hiện hẹp động mạch cảnh trong nhưng chụp động mạch vẫn là phương pháp quan trọng để xem xét hệ thống mạch máu não.
Chụp mạch cộng hưởng từ có thể phát hiện hẹp của mạch máu lớn nhưng không nhạy bằng chụp mạch. Vì vậy nếu CT scan sọ bình thường, không có nguyên nhân cục máu đông từ tim và nếu tuổi, tình trạng chung chỉ ra rằng bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao thì nên xem xét đến việc chụp động mạch cảnh hai bên để đánh gịá nhồi máu não động mạch cảnh, siêu âm giúp sàng lọc bệnh nhân cho nghiên cứu.
Các xét nghiệm khác
Lâm sàng và xét nghiệm cần phải đánh giá được tăng huyết áp, bệnh tim, rối loạn huyết học, tăng mỡ máu, đái tháo đường, bệnh mạch máu ngoại biên.
Xét nghiệm bao gồm công thức máu, đường máu lúc đói, cholesterol máu, huyết thanh chẩn đoán giang mai, điện tim, chụp tim phổi. Siêu âm tim với thuốc cản âm nếu có nguồn gốc ở tim, cấy máu nếu nghi ngờ viêm nội tâm mạc. Theo dõi điện tâm đồ nếu nghi ngờ có rốì loạn nhịp tim kịch phát, thoáng qua.
Chẩn đoán phân biệt
Động kinh ổ có thể gây vận động bất thường hoặc hiện tượng cảm giác như giật chi, dị cảm, đau nhói, hay gặp hơn là yếu hoặc mất cảm giác. Nhìn chung là các triệu chứng lan lên (hành trình) theo các chi và có thể dẫn đến cơn co cứng, co giật toàn thể.
Đau đầu kiểu đau nửa đầu cổ điển dễ được xác định bằng các triệu chứng báo trước về thị giác, tiếp sau đó là nôn, đau đầu và sợ ánh sáng nhưng các trường hợp không điển hình thì cũng khó phân biệt.
Tuổi của bệnh nhân và tiền sử (bao gồm cả tiền sử gia đình) có giá trị trong các trường hợp này. Bệnh nhân đau đầu kiểu đau nửa đầu thường có tiền sử các cơn đau từ tuổi thanh niên và các thành viên khác trong gia đình cũng có đau đầu tương tự.
Các thiếu hụt thần kinh khu trú có thể xảy ra trong hạ đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường dùng insulin hoặc uống thuốc hạ đường huyết.
Phương pháp điều trị thiếu máu não hiệu quả
Phẫu thuật
Khi chụp mạch phát hiện hẹp động mạch nặng có thể phẫu thuật (hẹp 70 - 99% đường kính lòng mạch) ở bên gây ra thiếu máu não thoáng qua của động mạch cảnh và có mảng xơ vữa tương đối nhỏ ở một nơi nào đó trong hệ thống mạch máu não thì điều trị phẫu thuật (cắt bỏ huyết khối trong lòng động mạch cảnh) làm giảm nguy cơ đột quy do động mạch cảnh củng bên, đặc biệt ở những bệnh nhân có các cơn thiếu máu não thoáng qua khởi phát gần nhau (< 2 tháng). Điều trị phẫu thuật không được chỉ định cho những trường hợp hẹp nhẹ (< 30%); lợi ích không rõ ràng so với hẹp nặng có xơ vữa mạch lan tỏa trong sọ.
Điều trị nội khoa
Bệnh nhân có các cơn thiếu máu thoáng qua của động mạch cảnh mà không phẫu thuật được (không chụp mạch) hoặc bệnh mạch máu lan tỏa thì cần phải điều trị nội khoa. Tương tự, những bệnh nhân có các cơn thiếu máu não thoáng qua, động mạch đốt sống thân nền được điều trị nội khoa không có chỉ định chụp mạch trừ khi có bằng chứng lâm sàng có hẹp hoặc tắc động mạch cảnh hoặc động mạch dưới đòn.
Mục đích điều trị nội khoa là phòng ngừa các cơn thiếu máu não thoáng qua tiếp theo và đột quy. Cần phải bỏ hút thuốc lá, các nguyên nhân từ tim gây huyết khối, tăng huyết áp, viêm động mạch, đái tháo đường, tăng mỡ máu hoặc các rối loạn huyết học cần phải được điều trị thích hợp. Nếu thuốc chống đông được chỉ định để điều trị huyết khối từ tim thì cần phải dùng sớm miễn là không có chống chỉ định.
Điều trị muộn không có lợi và việc lo ngại gây chảy máu ở vùng nhồi máu là không đúng vì nguy cơ cục máu đông phát triển lên trong tuần hoàn não là lớn hơn nếu không điều trị. Điều trị được bắt đầu bằng heparin tĩnh mạch (liều khởi đầu 5000 - 10000 đơn vị và liều duy trì 1000 - 2000 đơn vị trong 1 giờ tùy thuộc vào thời gian thromboplastin từng phần), trong khi đó warfarin được uống hàng ngày vối liều 5 - 15 mg tùy thuộc vào thời gian prothrombin. Có thể dùng aspirin (ngày 325 mg) thay thế ở những bệnh nhân rung nhĩ không do thấp để giảm nguy cơ đột quỵ.
Điều trị chứng thiếu máu cục bộ đột ngột bao gồm thuốc tiêm tĩnh mạch alteplase . Khi được thực hiện trong vòng ba giờ sau khi chẩn đoán, phương pháp điều trị khẩn cấp này đã được chứng minh là cải thiện kết quả y tế sau đột quỵ. Đôi khi, tPA có thể được truyền đến 4,5 giờ sau khi các triệu chứng đột quỵ bắt đầu.
Những bệnh nhân có các mảng xơ vữa mạch ở các mạch máu ngoài sọ hoặc trong sọ thì có chỉ định dùng thuốc chống huyết khối. Điều trị phụ thuộc vào tuổi của bệnh nhân, khả năng tuân thủ uống thuốc và các dịch vụ y tế. Một số bác sĩ sử dụng các thuốc chống đông (ví dụ dùng warfarin, dùng heparin kèm cho tới khi liều của warfarin có tác dụng) trừ khi có chống chỉ định, dùng thuốc trong vòng 3 - 6 tháng trước khi giảm liều và cuối cùng điều trị thay thế bằng aspirin trong 1 năm. Dù sao cũng không có bằng chứng thuyết phục về hiệu quả của thuốc chống đông. Một số bác sĩ khác dùng aspirin ngay từ đầu.
Bằng chứng có sức thuyết phục trong điều trị bằng aspirin là tác dụng chống kết dính tiểu cầu của nó. Các tiểu cầu kết dính và kết tập vào mảng xơ vữa loét và giải phóng ra hàng loạt các chất trung gian hóa học, trong đó có thromboxan A2. Một nghiên cứu chỉ ra rằng điều trị bằng aspirin làm giảm đáng kể tần số cơn thiếu máu não thoáng qua và tỷ lệ đột quỵ và nhồi máu cơ tim ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Liều hàng ngày là 325 mg; liều cao hơn có thể có tác dụng hơn nhưng lại làm tăng tác dụng phụ trên dạ dày ruột.
Dipyridamol không có tác dụng và khi điều trị kết hợp với aspirin cũng không có tác dụng phòng ngừa đột quy hơn so với điều trị bằng aspirin. Những bệnh nhân không dung nạp aspirin thì có thể dùng ticlopidin (một thuốc có tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu khác) với liều ngày 250 mg chia 2 lần, nhưng cần theo dõi chặt chẽ biến chứng giảm bạch cầu trung tính hoặc mất bạch cầu hạt.
5. Chế độ sinh hoạt và phòng ngừa
Những thói quen sinh hoạt có thể giúp bạn hạn chế diễn tiến của thiếu máu não
Chế độ sinh hoạt
-
Tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ trong việc điều trị.
-
Duy trì lối sống tích cực, hạn chế sự căng thẳng. Tham gia ít nhất hoạt động aerobic cường độ trung bình ít nhất 10 phút bốn lần một tuần hoặc hoạt động aerobic cường độ cao ít nhất 20 phút hai lần một tuần.
-
Liên hệ ngay với bác sĩ khi cơ thể có những bất thường trong quá trình điều trị.
-
Thăm khám định kỳ để được theo dõi tình trạng sức khỏe, diễn tiến của bệnh và để bác sĩ tìm hướng điều trị phù hợp trong thời gian tiếp theo nếu bệnh chưa có dấu hiệu thuyên giảm.
-
Bệnh nhân cần lạc quan. Tâm lý có ảnh hưởng rất lớn đến điều trị, hãy nói chuyện với những người đáng tin cậy, chia sẻ với những thành viên trong gia đình, nuôi thú cưng hay đơn giản là đọc sách, làm bất cứ thứ gì khiến bạn thấy thoải mái.
Chế độ dinh dưỡng
Điều chỉnh chế độ ăn uống cũng có thể giúp đạt được mức cholesterol lý tưởng. Hạn chế ăn mặn và việc tuân theo một chế độ ăn Địa Trung Hải tốt cho tim mạch, não bộ cũng được khuyến cáo.
Phương pháp phòng ngừa thiếu máu não hiệu quả
Để phòng ngừa bệnh hiệu quả, bạn có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây:
-
Kiểm soát tốt các yếu tố như huyết áp, chế độ ăn lành mạnh, tăng cường tập luyện thể dục, không hút thuốc và giữ cân nặng trong giới hạn bình thường ổn định.
-
Các loại thuốc có thể giúp bạn đạt được huyết áp lý tưởng, cũng như thuốc để giảm mức cholesterol và chất béo trong máu.
-
Quản lý các yếu tố nguy cơ mạch máu, đặc biệt là tăng huyết áp, tiểu đường, mức cholesterol/ triglycerid và ngừng hút thuốc, là những chiến thuật phòng ngừa thứ cấp quan trọng...
- Mọi thông tin trên đây chỉ mang tính chất tham khảo. Việc sử dụng thuốc phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên môn.
Theo benhvien108.vn