Bàng đại hải còn gọi là an nam tử là quả của cây lười ươi, đười ươi, cây thạch, cây uơi, đại đồng quả… Người ta hái quả chín nứt ở cây lấy hạt phơi khô làm thuốc, dùng dần. Hạt bàng đại hải hình bầu dục trông như quả trám.
Bề mặt màu nâu tối hoặc màu nâu vàng sẫm, có vân nhẵn không đồng đều. Để làm thạch và làm nước giải khát, sau khi lấy hạt, ngâm nước cho hạt nở to gấp 8-10 lần thể tích của hạt, nước có chất nhầy, màu nâu nhạt trong, vị hơi chát và mát. Lá non nấu canh ăn được. Chất nhầy của hạt còn dùng làm thuốc trị các chứng đau ruột và các bệnh về đường đại tiện. Bàng đại hải có nhiều ở miền Nam nước ta và tại nhiều nước khác ở Đông Nam Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia.
Thuốc từ bàng đại hải trị đau họng, nội nhiệt, chảy máu cam.
Theo Đông y, bàng đại hải tính hàn, vị ngọt, lợi về kinh phế, đại tràng có công dụng thanh nhiệt, nhuận phổi, lợi hầu, giải độc. Phù hợp với người ho khan, không có đờm, đau họng, khản tiếng, cốt chưng (người bệnh sốt nhẹ về chiều, đổ mồ hôi trộm...). Dưới đây là những bài thuốc thường dùng:
Trị đau họng, ho khan không có đờm, khàn tiếng, cốt chưng nội nhiệt, chảy máu cam: Bàng đại hải 3 hạt, mật ong 15ml. Hãm với nước sôi uống thay trà.
Trị ho khan, mất tiếng, họng nóng rát, viêm đau lợi: Bàng đại hải 5 hạt, cam thảo 3g. Sắc uống thay trà. Nếu người già hoặc trẻ em uống có thể cho thêm ít đường phèn.
Trị chảy máu cam ở trẻ nhỏ: Bàng đại hải 2-5 hạt sao vàng, nấu lấy nước cho trẻ uống trong ngày.
Trị viêm họng, viêm amidan cấp tính: Bàng đại hải 5g, bản lam căn 5g, mạch môn đông 5g, cam thảo 3g. Hãm với nước sôi, uống nhiều lần thay trà. Hoặc dùng bài: Bàng đại hải 5g, bồ công anh 4g, hoa kim ngân (khô) 16g, bạc hà 2g, cam thảo 1g. Rửa sạch, hãm nước sôi, uống thay hàng ngày.
Lưu ý: Bàng đại hải chỉ dùng mỗi ngày từ 2-5 hạt, không dùng kéo dài.
Theo sức khoẻ đời sống